Trong công nghiệp, đáng chú ý là công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khá cao so với mức tăng chung (công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12% so với 9 tháng năm trước). Tổng mức bán lẻ hàng hóa 9 tháng tăng 19,86% so với cùng kỳ năm trước. Thu ngân sách đạt khá, ước 9 tháng năm 2018 là 5.904,4 tỷ đồng, đạt 84% dự toán năm, tăng 52,88% so với cùng kỳ năm trước. Công tác giải quyết việc làm và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách xã hội được các cấp, các ngành hết sức quan tâm; công tác khám chữa bệnh được duy trì tốt; quốc phòng an ninh luôn đảm bảo, công tác giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội luôn được tăng cường. Trên cơ sở số liệu 8 tháng và ước tính tháng 9 năm 2018, Cục Thống kê sơ bộ phân tích đánh giá tình hình kinh tế xã hội 9 tháng năm 2018 trên một số lĩnh vực như sau:
I. Phát triển kinh tế
1. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
Trong 9 tháng năm 2018 tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 5.904,373 tỷ đồng, bằng 84% so với dự toán năm, tăng 52,88% so với cùng kỳ, cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định và phát triển. Trong đó: Thu từ sản xuất kinh doanh trong nước ước 5.391,906 tỷ đồng, đạt 85% so kế hoạch HĐND giao. thu thuế xuất, nhập khẩu ước 501,834 tỷ đồng, đạt 83% so kế hoạch HĐND giao, tăng 21,76% so với cùng kỳ năm 2018.
Tổng chi ngân sách nhà nước địa phương 9 tháng năm 2018 ước thực hiện 6.567,735 tỷ đồng, đạt 64% so với dự toán năm, tăng 36,24% so với cùng kỳ, trong đó: Chi đầu tư phát triển: 2.399,149 tỷ đồng, đạt 70% dự toán, tăng 133,51% so với cùng kỳ; chi thường xuyên: 3.913,527 tỷ đồng, đạt 65% dự toán, tăng 5,38% so với cùng kỳ.
Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ đến cuối tháng 9/2018 ước đạt 30.500 tỷ đồng, tăng 3,64% so cùng kỳ năm trước. Cơ cấu vốn huy động ít có sự biến động, tiền gửi trên 12 tháng luôn chiếm tỷ trọng 12%/tổng nguồn vốn huy động; tiền gửi đồng Việt Nam chiếm 98,79%, tiền gửi ngoại tệ chiếm 1,21%; tiền gửi tiết kiệm chiếm 72,92%, tiền gửi thanh toán chiếm 27,08%, phát hành giấy tờ có giá chiếm 1,57%.
Dư nợ tín dụng đến cuối tháng 9/2018 ước đạt 61.150 tỷ đồng, tăng 23,19% so với cùng kỳ năm trước. Nợ quá hạn 9 tháng năm 2018 ở mức khoảng 1,5%/tổng dư nợ.
Số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN tính đến ngày 31/8/2018 là 801.819 người, tăng 21.696 người (2,78%) so cùng kỳ năm trước, đạt 98,85% kế hoạch.
2. Đầu tư và xây dựng
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 9/2018 ước tính đạt 239,2 tỷ đồng, tăng 39,44% so với tháng trước, bao gồm: Vốn ngân sách cấp tỉnh 52 tỷ đồng, tăng 40,31%; vốn ngân sách cấp huyện 115 tỷ đồng, tăng 38,89%.
Tổng kế hoạch vốn giao năm 2018 là 3.439 tỷ 114 triệu đồng, giải ngân 8 tháng là 1.660 tỷ 335 triệu đồng, đạt 48,27% kế hoạch. Ước giải ngân đến 30/9/2018 là 1.960 tỷ đồng, đạt 57% kế hoạch điều chỉnh.
Về thu hút FDI: 9 tháng năm 2018 toàn tỉnh đã thu hút được 29 dự án với tổng vốn đăng ký là 336,4 triệu USD, tăng 45,45% về số dự án và tăng 450% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó có 09 dự án đầu tư đến từ Trung Quốc với tổng số vốn 13,7 triệu USD; 09 dự án đầu tư đến từ Hàn Quốc với tổng số vốn 81,3 triệu USD; 04 dự án đầu tư đến từ Samoa với tổng số vốn 14,5 triệu USD và Thái Lan 02 dự án đầu tư với tổng số vốn 193,6 triệu USD.
Hoạt động xây dựng quý III và 9 tháng năm 2018 có dấu hiệu chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất xây dựng quý III theo giá hiện hành ước đạt 3.379,4 tỷ đồng, 9 tháng năm 2018 ước đạt 8.577,3 tỷ đồng, bao gồm: Khu vực ngoài Nhà nước 2.706,6 tỷ đồng, chiếm 31,56%; loại hình khác 5.870,7 tỷ đồng, chiếm 68,44%. Giá trị sản xuất xây dựng quý III theo giá so sánh ước đạt 2.409 tỷ đồng, tăng 13,15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2018 ước đạt 5.963,4 tỷ đồng, tăng 0,34% so với 9 tháng năm 2017.
3. Sản xuất nông, lâm, thủy sản và xây dựng nông thôn mới
Mặc dù thời tiết trong thời gian qua diễn biến phức tạp, nhiệt độ luôn ẩm thấp phát sinh nhiều sâu bệnh đã làm ảnh hưởng tới việc gieo trồng cũng như năng suất, sản lượng của tất cả các loại cây trồng, song với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của các cấp, các ngành, địa phương và sự nỗ lực của người dân sản xuất nông nghiệp của tỉnh vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cụ thể như sau:
- Về cây hàng năm: Toàn tỉnh ước gieo trồng cây hàng năm được 30.349 ha, giảm 9,12% so với cùng kỳ năm 2017.
- Về cây lâu năm ước tính 9 tháng năm 2018 toàn tỉnh hiện có 415.597 ha cây lâu năm, tăng 0,76% (+ 3.132 ha) so với 9 tháng năm 2017. Trong đó: Cây ăn quả các loại hiện có 9.170 ha, tăng 7,8% (+663 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Về chăn nuôi tiếp tục duy trì và phát triển ổn định tương đối ổn định. Số lượng gia súc, gia cầm ước 9 tháng năm 2018 gồm có: 12.522 con trâu (tăng 2,22% so cùng kỳ năm trước), sản lượng 857 tấn (tăng 1,06% so cùng kỳ năm trước); 33.860 con bò (tăng 2,76%), sản lượng 2.097 tấn (tăng 4,07%) ; 370.170 con heo (tăng 5,69%), sản lượng 37.000 tấn (tăng 4,93%) và 4.455 ngàn con gia cầm (trong đó đàn gà 4.260 ngàn con).
- Công tác thú y luôn được các cấp, các ngành quan tâm nên tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm không xảy ra nguy hiểm.
- Các mô hình phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh được triển khai phổ biến rộng rãi giúp người nông dân tiếp tục phát triển sản xuất và mở rộng thâm canh. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 9 tháng năm 2018 là 1.811 ha, giảm 5 ha so với cùng kỳ năm 2017. Sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2018 ước đạt 3.799 tấn (tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước).
Xây dựng nông thôn mới tiếp tục được sự quan tâm. Trên toàn tỉnh số tiêu chí đạt bình quân của 92 xã là 13,73 tiêu chí/xã, tăng 0,45 tiêu chí so với đầu năm 2018. Đối với 09 xã phấn đấu về đích trong năm 2018 số tiêu chí đạt bình quân là 15,22 tiêu chí, tăng 3,55 tiêu chí so với đầu năm 2018. Ước đến cuối năm 2018, có 02 thị xã: Đồng Xoài, Phước Long đạt chuẩn nông thôn mới; có 36/92 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 39,1% (nghị quyết đến năm 2020 là 50%); số tiêu chí bình quân của toàn tỉnh là 13,88 tiêu chí, tăng 3,15 tiêu chí so với đầu nhiệm kỳ.
4. Sản xuất công nghiệp và hoạt động doanh nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9/2018 ước đạt 104,15% so với tháng trước và 111,76% so với cùng kỳ năm trước, tức là tăng 4,15% so với tháng trước và tăng 11,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước đạt 111,09% so với cùng kỳ năm trước, tức là tăng 11,09%.
Trong 9 tháng năm 2018, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Bàn bằng gỗ các lọai tăng 190,37%; Các loại van khác chưa được phân vào đâu tăng 139,02%; Bao bì và túi bằng giấy nhăn và bìa nhăn tăng 53,01%; Nước tinh khiết tăng 47,9%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Vải dệt nổi vòng, vải sonin từ sợi nhân tạo tăng 0,95%; Đá xây dựng khác tăng 0,53%; Thanh, que bằng thép hợp kim khác giảm 74,03%; Dịch vụ đúc gang, sắt, thép giảm 9,38%; Đồ nội thất bằng gỗ khác chưa được phân vào đâu giảm 5,81%...
Hoạt động doanh nghiệp tiếp tục tăng cả về số lượng và vốn đăng ký. Trong 9 tháng năm 2018 đã cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 740 doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 9.960 tỷ đồng, tăng 32% về số doanh nghiệp và tăng 177% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017 và đạt 82,2% kế hoạch năm. Có 45 doanh nghiệp đăng ký giải thể, có 210 doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trước thời hạn là 21 doanh nghiệp.
5. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước tính đạt 3.603,6 tỷ đồng, tăng 0,86% so với tháng trước và tăng 11,74% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện được 32.142,4 tỷ đồng, đạt 73,89% so kế hoạch và tăng 16,06% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 25.759,4 tỷ đồng, tăng 19,86% (trong đó, ngành hàng vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 35,11%; lương thực, thực phẩm tăng 27,04%; may mặc tăng 22,39%); doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 3.709,8 tỷ đồng, tăng 3,49%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 8,2 tỷ đồng, giảm 1,14%; doanh thu dịch vụ khác đạt 2.665 tỷ đồng, tăng 2,13%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2018 tăng 0,29% so với tháng trước, tăng 6,35% so với cùng kỳ năm trước; tăng 3,40% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá bình quân 9 tháng so cùng kỳ năm trước tăng 5,71%.
Giá vàng và đôla Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 1,39% so với tháng trước; giảm 3,02% so với tháng 12/2017 và giảm 2,13% so với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng 4,52%. Chỉ số Đô la Mỹ tháng 9/2018 tăng 0,09% so với tháng trước; tăng 4,01% so với tháng 12/2017 và tăng 2,69% so với cùng kỳ năm 2017, chỉ số giá bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng 1,36%.
6. Giao thông vận tải - Bưu chính viễn thông
Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tại tháng 9 năm 2018 ước thực hiện 140,7 tỷ đồng, tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 3,49% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2018 ước thực hiện 420 tỷ đồng, tăng 5,45% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2018 ước thực hiện 1.252 tỷ đồng, tăng 6,32% so với cùng kỳ, trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước thực hiện 752,3 tỷ đồng, tăng 6,52% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước thực hiện 486,4 tỷ đồng, tăng 5,66%; dịch vụ hỗ trợ vận tải ước thực hiện 13,3 tỷ đồng, tăng 20,25%.
Tháng 9/2018 vận tải hành khách ước thực hiện 986,58 ngàn HK và 120,87 triệu HK.km, so với tháng trước tăng 0,12% về vận chuyển và tăng 0,24% về luân chuyển, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,98% về vận chuyển và tăng 2,79% về luân chuyển. Quý III vận tải hành khách ước thực hiện 2.954,19 ngàn HK và 361,61 triệu HK.km, so với cùng kỳ tăng 4,16% về vận chuyển và tăng 2,80% về luân chuyển. Tính chung 9 tháng năm 2018, vận tải hành khách ước thực hiện 8.843,39 ngàn HK và 1.085,54 triệu HK.km, tăng 5,14% về vận chuyển và tăng 4,08% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng hoá tháng 9/2018 ước thực hiện được 258,78 ngàn tấn và 17,62 triệu T.km, so với tháng trước tăng 0,26% về vận chuyển và tăng 0,37% về luân chuyển, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,71% về vận chuyển và tăng 2,79% về luân chuyển. Quý III vận tải hàng hóa ước thực hiện 765,75 ngàn tấn và 51,89 triệu T.km, so với cùng kỳ tăng 7,58% về vận chuyển và tăng 5,89% về luân chuyển. Tính chung 9 tháng năm 2018, vận tải hàng hoá ước thực hiện được 2.221,28 ngàn tấn và 149,73 triệu T.km, tăng 7,05% về vận chuyển và tăng 5,34% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến tháng 9/2018 toàn tỉnh có 152 điểm phục vụ bưu chính với bán kính phục vụ bình quân là 3,95 km; đáp ứng 100% số xã được phục vụ bưu chính và 451 điểm cung cấp dịch vụ viễn thông (Viettel: 92; VNPT: 179; Mobifone 178; Vietnamobile: 01; Gtel: 01). Các doanh nghiệp đã chú trọng phát triển và nâng chất lượng mạng di động, đến nay có khoảng 964 trạm 3G; 701 trạm 4G phủ sóng khoảng 87% trên phạm vi toàn tỉnh.
II. Về lĩnh vực văn hóa – xã hội
1. Lao động, việc làm và đời sống dân cư
Ước trong 9 tháng năm 2018, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 27.793/30.000 lao động, đạt 92,64% kế hoạch, trong đó xuất khẩu được 73 lao động; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đạt 3,2% và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn trên 90%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 51,3% đạt 98,65% kế hoạch năm.
Tổ chức tư vấn, giới thiệu nghề, việc làm cho 7.547 lao động; giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng cho 5.306 lao động; hỗ trợ học nghề cho 170 lao động thất nghiệp; tổ chức 02 phiên giao dịch việc làm thu hút 26 doanh nghiệp (Có nhu cầu tuyển dụng 5.800) và 1.348 lao động tham gia.
Đời sống dân cư 9 tháng năm 2018 có nhiều cải thiện về mặt tinh thần cũng như về vật chất, văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện, các chính sách xã hội được chú trọng, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Các chế độ tiền lương, chính sách đối với đời sống cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn tỉnh vẫn được đảm bảo, chế độ nâng lương định kỳ, bảo hiểm xã hội… góp phần ổn định hơn về đời sống vật chất, tinh thần, yên tâm trong công tác.
2. Công tác an sinh xã hội
Trong 9 tháng năm 2018 đã khảo sát, xây dựng 02 mô hình giảm nghèo tại 02 xã có tỷ lệ nghèo cao thuộc huyện Lộc Ninh và thị xã Phước Long; phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh vận động, phân bổ 430 căn nhà cho hộ nghèo, hộ nghèo dân tộc thiểu số khó khăn về nhà ở. An sinh xã hội luôn được coi là nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách cần thực hiện. Kết quả đạt được về công tác giảm nghèo trong 9 tháng năm 2018, cụ thể: Quà thăm hỏi và hỗ trợ các hộ nghèo là 5,85 tỷ đồng; Cứu đói và cứu trợ xã hội khác: 0,18 tỷ đồng.
3. Công tác bảo trợ xã hội
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh tiếp nhận 07 đối tượng, quản lý nuôi dưỡng tập trung 52 đối tượng và đón tiếp 113 đoàn khách đến thăm, tặng quà với tổng trị giá 0,429 tỷ đồng. Ngoài ra, nhân dịp tết Nguyên đán Mậu Tuất năm 2018, đã hỗ trợ 70.356 phần quà, với tổng kinh phí 29,9 tỷ đồng cho hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và các đối tượng khó khăn khác.
Thực hiện trợ cấp thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí tại cộng đồng cho 18.822 đối tượng với tổng kinh phí là 49,18 tỷ đồng và đảm bảo 100% đối tượng đều có thẻ bảo hiểm y tế.
4. Công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công
9 tháng năm 2018 đã giải quyết 1.994 hồ sơ, trong đó: 1.254 hồ sơ thờ cúng liệt sỹ, 391 hồ sơ mai táng phí, 120 hồ sơ di chuyển hồ sơ người có công đi ngoài tỉnh, 53 hồ sơ chất độc hóa học, 41 hồ sơ trang cấp dụng cụ chỉnh hình, 32 hồ sơ theo Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg, 20 hồ sơ tuất, 20 hồ sơ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg, 15 hồ sơ đính chính thông tin mộ liệt sỹ, 35 hồ sơ đính chính thông tin người có công, 07 hồ sơ di chuyển hài cốt liệt sỹ, 04 hồ sơ theo Quyết định 57/2013/QĐ-TTg, 01 hồ sơ thương binh, 01 hồ sơ liệt sĩ. Tổ chức điều dưỡng tập trung cho 586 đối tượng.
Phối hợp với các ngành liên quan tổ chức Lễ truy điệu, an táng 127 hài cốt liệt sỹ được quy tập từ Campuchia và trong nước về an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ tỉnh; phục vụ Lễ truy tặng Danh hiệu vinh dự nhà nước cho 19 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và tặng thưởng 08 Huân chương độc lập đối với gia đình liệt sỹ.
5. Giáo dục, đào tạo
Đã hoàn thành các nhiệm vụ năm học 2017-2018 đúng quy định và các văn bản hướng dẫn chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; chỉ đạo các cơ sở giáo dục tổ chức tựu trường, khai giảng và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm học 2018-2019 đúng kế hoạch. Đến năm 2018, có 100% phường, thị trấn, xã đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 23/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGDTH mức độ 2 và 88/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGDTH mức độ 3; duy trì 111/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở; 9/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập THPT, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 28,36%.
6. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Ngành Y tế tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát và thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch bênh nguy hiểm như dịch sốt rét, sốt xuất huyết, tay chân miệng; An toàn vệ sinh thực phẩm cơ bản được đảm bảo, không có vụ ngộ độc thực phẩm lớn xảy ra. Các chương trình mục tiêu y tế đều đã triển khai đầy đủ các hoạt động, số trẻ em được tiêm chủng đầy đủ 12.424 trẻ đạt 60% kế hoạch giảm 0,8 % so với cùng kỳ, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm đạt 82,9%.
7. Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong 9 tháng năm 2018, ngành Văn hóa - Thể thao & Du lịch đã triển khai thực hiện các hoạt động văn hóa, thể thao diễn ra sôi nổi, rộng khắp, đa dạng và phong phú chào mừng các ngày lễ lớn và các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước. Cụ thể:
- Công tác tuyên truyền: Kết quả đã thực hiện được 21.693m băng rôn, 24.731m2 panô, 10.432m2 banner, treo 26.455 lượt cờ các loại, 54.650m cờ dây, 6.000m đèn dây điện tử, phát hành 33 CD ma-két hướng dẫn nghiệp vụ và 200 tờ rơi, triển lãm 305 hình ảnh về thành tựu kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh, tuyên truyền được 5.136 giờ trên hệ thống đèn điện tử và 1.644 giờ bằng xe tuyên truyền lưu động.
- Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc: Tổ chức trưng bày chuyên đề “Thi hành Hiệp định Paris - 45 năm nhìn lại qua tư liệu lịch sử” và chương trình “Điểm hẹn di sản văn hóa”; trưng bày hình ảnh các di tích đã xếp hạng trên địa bàn tỉnh tại Lễ đón nhận văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Hạt điều Bình Phước”; Lễ công bố bảo vật quốc gia Đàn đá Lộc Hòa….Trong 9 tháng năm 2018, các di tích đón tiếp 751 đoàn khách tham quan, với tổng lượt khách là 66.169 lượt người.
- Nghệ thuật biểu diễn và hoạt động quần chúng: Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh tổ chức được 84 buổi biểu diễn phục vụ khoảng 41.250 lượt người xem. Trung tâm Văn hóa tỉnh xây dựng 06 chương trình, tổ chức được 89 buổi biểu diễn thông tin lưu động, phục vụ khoảng 26.700 lượt người xem.
- Hoạt động thư viện: Duy trì trao đổi báo, tạp chí địa phương với thư viện các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ; tổ chức 29 đợt trưng bày sách, báo, tạp chí phục vụ nhiệm vụ chính trị. Trong 9 tháng năm 2018, thư viện tỉnh phục vụ được 203.893 lượt bạn đọc (trong đó 5.405 lượt bạn đọc tại Thư viện tỉnh, 5.281 lượt bạn đọc lưu động, 196 lượt bạn đọc sách điện tử, 1.355 lượt bạn đọc truy cập internet và 170.941 lượt bạn đọc truy cấp website thư viện tỉnh, 20.715 lượt bạn đọc cơ sở), luân chuyển 137.667 lượt sách, báo, tạp chí; cấp mới 68 thẻ và gia hạn 49 thẻ bạn đọc thư viện.
- Hoạt động chiếu bóng: Triển khai 03 đội chiếu bóng lưu động đi chiếu phim phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, cán bộ và chiến sĩ bộ đội biên phòng và vùng biên giới được 501 buổi chiếu, thu hút khoảng 54.345 lượt người xem. Rạp chiếu phim đã tổ chức được 273 xuất chiếu với khoảng 2.655 lượt người đến xem.
- Thể dục thể thao: Tổ chức trận Bóng đá giáo hữu với Câu lạc bộ Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai và trận Bóng đá giao hữu với câu lạc bộ SHB Đà Nẵng, thu hút khoảng 20.000 khán giả; giải Bóng đá U13&U15 tỉnh; giải Xe đạp Đồng bằng Sông Cửu Long lần thứ 27 tranh cúp Gạo Hạt Ngọc Trời, giải Xe đạp quốc tế VTV cúp Tôn Hoa Sen; giải đua Xe đạp truyền hình Bình Dương mở rộng lần thứ V năm 2018… Trong 9 tháng năm 2018, các đội tuyển của tỉnh tham gia 51 giải thể thao cụm, khu vực và toàn quốc, kết quả đạt 52 HCV, 60 HCB, 112 HCĐ, 11 kiện tướng, 05 dự bị kiện tướng, 38 cấp I.
- Hoạt động du lịch: Hoạt động du lịch 9 tháng năm 2018 với lượt khách tham quan đạt 333.648 lượt khách; doanh thu đạt 277,5 tỷ đồng.
8. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng 9/2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ cháy làm thiệt hại khoảng 0,9 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng, cả tỉnh xảy ra 19 vụ cháy làm 02 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 5 tỷ đồng.
Cơ quan chức năng đã phát hiện 07 vụ vi phạm môi trường trong tháng 9/2018, tiến hành xử lý 5 vụ vi phạm với số tiền xử phạt là 60 triệu đồng. Tính chúng 9 tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 112 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 47 vụ với tổng số tiền phạt 210,5 triệu đồng.
9. Tai nạn giao thông
Trong 9 tháng năm 2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 195 vụ tai nạn giao thông làm 139 người chết, 136 người bị thương, làm thiệt hại 302 phương tiện giao thông. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 11,76%; số người chết giảm 2,11%; số người bị thương giảm 21,84%.
Lực lượng cảnh sát giao thông đã phát hiện 49.255 trường hợp vi phạm TTATGT, tạm giữ 10.796 phương tiện, tước 4.008 GPLX, cảnh cáo 1.015 trường hợp, xử lý hành chính 44.410 trường hợp. Số tiền nộp kho bạc nhà nước 31 tỷ đồng.
10. Thiệt hại thiên tai
Tình hình thiệt hại thien tai 9 tháng năm 2018, toàn tỉnh đã xảy ra 07 đợt thiên tai, những cơn mưa to kèm theo gió lốc xoáy làm thiệt hại: 74 căn nhà; 01 người bị thương; 149,62 (ha) cây công nghiệp lâu năm; 0,3 (ha) cây hàng năm; 3,1 (ha) diện tích ao hồ; 15 trụ sở cơ quan. Ước tính tổng số tiền thiệt hại do thiên tai gây ra trên địa bàn tỉnh 19,99 tỷ đồng.
Đánh giá chung:
Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2018 của tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực.
Sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng khá, cùng với sự phát triển doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng đi đôi với việc thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát và nhu cầu tiêu dùng, sức mua của xã hội; Giao thông vận tải đảm bảo nhu cầu vận chuyển hàng hoá và nhu cầu đi lại của nhân dân.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề đạt chỉ tiêu đề ra; công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo được các cấp các ngành và toàn xã hội quan tâm; công tác văn hoá xã hội có nhiều hoạt động thiết thực; chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên; công tác y tế nhìn chung các chỉ tiêu về chuyên môn hoàn thành kế hoạch được giao; công tác chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số luôn được quan tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi cũng còn những khó khăn, hạn chế như: Mưa nhiều, lốc xoáy gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng đến đời sống nhân dân; sản xuất vụ mùa giảm so với cùng kỳ; giá cả các mặt hàng nông sản chủ lực của tỉnh xuống thấp (hồ tiêu), giá cao su chậm phục hồi; tiến độ thi công một số công trình trọng điểm chậm; giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản và vốn chương trình mục tiêu quốc gia đạt thấp.
Trên đây là một số tình hình cơ bản về kinh tế - xã hội Đăng Nhập Hi88
9 tháng năm 2018./.