(CTTĐTBP) - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa ban hành Quyết định số 431/QĐ-BNN-TT ngày 26/01/2024 phê duyệt Đề án phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030, gồm các cây: cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, dừa.
Mục tiêu đến năm 2030 của Đề án là diện tích cây công nghiệp chủ lực cả nước đạt khoảng 2,1 - 2,3 triệu ha; sản lượng cà phê nhân đạt 1,8 - 2,0 triệu tấn, mủ cao su thô 1,3 - 1,5 triệu tấn, chè búp tươi 1,2 - 1,4 triệu tấn, hạt điều 0,36 - 0,4 triệu tấn, hồ tiêu 0,18 - 0,23 triệu tấn, dừa 2,1 - 2,3 triệu tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm 6 cây công nghiệp chủ lực đạt khoảng 14 - 16 tỷ USD (không tính kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ từ cây cao su).
Đồng thời, Đề án định hướng phát triển đến năm 2030 cụ thể như sau:
Cây cà phê: Đến năm 2030, diện tích cà phê cả nước khoảng 640 - 660 nghìn ha, trong đó vùng Tây Nguyên khoảng 600 nghìn ha, còn lại 40 - 60 nghìn ha được trồng tại các tỉnh: Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La, Quảng Trị, Bình Thuận... Cơ cấu diện tích cà phê vối khoảng 90 - 92%, cà phê chè khoảng 8 - 10%; cà phê chè được trồng tại một số tỉnh: Quảng Trị, Sơn La, Điện Biên, Lâm Đồng, Kon Tum... Phát triển vùng trồng cà phê theo hướng cảnh quan; những nơi có điều kiện thuận lợi, kết hợp vùng trồng cà phê với phát triển văn hóa, du lịch, dịch vụ... Rà soát diện tích cà phê trồng ở những nơi không thích hợp, năng suất thấp chuyển đổi sang cây trồng khác hiệu quả cao hơn. Tiếp tục trồng tái canh, ghép cải tạo diện tích cà phê già cỗi, năng suất thấp bằng các giống mới năng suất, chất lượng cao, kháng sâu bệnh... Đến năm 2030, 80 - 90% diện tích cà phê trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn. Diện tích cà phê sản xuất theo hướng hữu cơ đạt khoảng 02%, cà phê đặc sản khoảng 03%, diện tích cà phê đạt các tiêu chuẩn sản xuất (RA, 4C, Flo, C.A.F.E. Practices...) khoảng 35 - 40%; trên 70% diện tích cà phê được cấp mã số vùng trồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tỷ lệ thu hái cà phê đúng độ chín, đạt tiêu chuẩn chất lượng khoảng 80 - 90%. Hạt cà phê cần được đảm bảo sạch trong tất cả các khâu: thu hái, phơi sấy, sơ chế, bảo quản, cung cấp cà phê nguyên liệu... để đảm bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Khuyến khích đầu tư các nhà máy sử dụng công nghệ mới, hiện đại chế biến cà phê rang xay, cà phê hòa tan. Đến năm 2030, sản lượng cà phê chế biến sâu đạt khoảng 20 - 25% tổng sản lượng cà phê cả nước. Khối lượng cà phê xuất khẩu đến năm 2030 đạt khoảng 80 - 85% tổng sản lượng cà phê cả nước; trong đó cà phê rang xay chiếm khoảng 05 - 06%, cà phê hòa tan từ 19 - 20%.
Cây cao su: Diện tích cao su cả nước đến năm 2030 khoảng 800 - 850 nghìn ha; trong đó vùng Đông Nam Bộ khoảng 480 - 500 nghìn ha, vùng Tây Nguyên khoảng 180 - 200 nghìn ha, còn lại 140 - 150 nghìn ha được trồng tại một số tỉnh vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc. Rà soát, chuyển đổi diện tích cao su ở vùng không thích hợp sang cây trồng khác, thâm canh chăm sóc diện tích cao su hiện có, trồng tái canh diện tích đến thời kỳ thanh lý (chủ yếu các tỉnh vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) bằng các giống thích hợp. Đến năm 2030, 100% diện tích cao su trồng mới được sử dụng các giống đúng tiêu chuẩn. Tổ chức trồng cao su theo hướng đại điền, diện tích cao su thực hiện liên kết tiêu thụ sản phẩm đạt trên 70%, diện tích cao su được cấp chứng chỉ rừng bền vững khoảng 250 - 300 nghìn ha; 100% lượng mủ và gỗ cao su Việt Nam có mã số vùng trồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Đầu tư mới hoặc nâng cấp nhà máy chế biến mủ cao su, nâng sản lượng mủ cao su chế biến trong nước đạt trên 40%; đầu tư một số phòng phân tích, kiểm nghiệm, chứng nhận mủ cao su thiên nhiên. Đầu tư chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm từ mủ cao su như: lốp, nệm, sợi chỉ thun, găng tay, các linh kiện cao su phụ trợ phục vụ ngành công nghiệp... Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu thị trường, sản xuất các sản phẩm từ gỗ cao su phục vụ nhu cầu trong nước và quốc tế.
Cây chè: Đến năm 2030, diện tích trồng chè cả nước khoảng 120 - 125 nghìn ha; trong đó vùng Trung du miền núi phía Bắc khoảng 98 - 100 nghìn ha, vùng Bắc Trung Bộ khoảng 10 - 12 nghìn ha, vùng Tây Nguyên khoảng 08 - 10 nghìn ha, còn lại được trồng tại một số tỉnh Quảng Ninh, Hà Nội, Quảng Nam...
Đối với diện tích chè Shan tuyết cổ thụ tại các tỉnh: Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Cạn... tiếp tục thực hiện các biện pháp bảo tồn nguồn gen, tổ chức sản xuất, chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đối với diện tích chè trồng thâm canh cần áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật mới như trồng cây che bóng, tưới nước tiết kiệm, cơ giới hóa khâu đốn, thu hoạch búp chè, phun thuốc bảo vệ thực vật... Đến năm 2030, diện tích chè áp dụng quy trình sản xuất GAP và tương đương đạt khoảng trên 70%, diện tích chè được cấp mã số vùng trồng đạt trên 70%. Với diện tích chè già cỗi, cần trồng tái canh bằng những giống chè mới có năng suất, chất lượng cao; 100% diện tích chè trồng mới được sử dụng giống đạt tiêu chuẩn. Ở những nơi có điều kiện, gắn phát triển vùng trồng chè với phát triển văn hóa, du lịch, dịch vụ (Thái Nguyên, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Nghệ An, Lâm Đồng...).
Tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè; cơ cấu sản phẩm chè xanh 50%, chè đen 50%. Đồng thời, đa dạng hóa sản phẩm chè như: chè Ô-long, chè túi lọc, chè bột Matcha, chè đỏ (hồng trà), chè trắng (bạch trà), chè ép bánh, chè thảo dược, chè đóng chai... và các sản phẩm chè làm nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, y tế... Áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng tiên tiến trong chế biến và kiểm soát chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất và chế biến. Tiếp tục xây dựng, phát triển thương hiệu các sản phẩm chè có chỉ dẫn địa lý. Xây dựng, phát triển chứng nhận sản phẩm OCOP chè ở các địa phương gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới.
Cây điều: Đến năm 2030, diện tích điều cả nước khoảng 280 - 300 nghìn ha; trong đó vùng trồng điều trọng điểm Đông Nam Bộ khoảng 170 - 180 nghìn ha, vùng Tây Nguyên khoảng 80 - 90 nghìn ha. Còn lại khoảng 10 - 30 nghìn ha được trồng tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Định.... Trồng tái canh hoặc ghép cải tạo diện tích điều già cỗi trên 30 năm tuổi, năng suất thấp bằng những giống có năng suất cao hơn, phù hợp với chế biến: PN1, AB29, AB05-08, LBC5... Đến năm 2030, khoảng 80 - 90% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn. Diện tích điều áp dụng quy trình kỹ thuật thâm canh chiếm 40 - 50%; diện tích điều được trồng xen (ca cao, cây gia vị, cây dược liệu, nấm...), nuôi xen (ong mật, gà...) khoảng 20 - 25 nghìn ha. Áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất điều (sử dụng giống, bón phân, đốn tỉa cành, tạo tán, dọn thực bì....), nâng cao sức chống chịu, hạn chế ảnh hưởng của dịch bệnh và mưa trái vụ.
Đến năm 2030, 100% cơ sở chế biến nhân điều tự động hóa khâu tách vỏ cứng và bóc vỏ lụa nhân điều, trên 95% cơ sở chế biến hạt điều được cấp chứng nhận quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn ISO, HACCP, GMP... Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến nhân điều, tăng cường chế biến sâu nâng cao chuỗi giá trị; đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ cây điều như: tinh luyện dầu từ vỏ hạt điều, sản xuất cồn từ nước ép quả điều, ván ép từ gỗ điều và bã vỏ điều... Nâng tỷ lệ chế biến sâu nhân điều lên 25 - 30%.
Cây hồ tiêu: Đến năm 2030, diện tích khoảng 80 - 100 nghìn ha; trong đó vùng Tây Nguyên 60 - 70 nghìn ha, vùng Đông Nam Bộ 25 - 30 nghìn ha, còn lại 05 - 10 nghìn ha được trồng tại một số tỉnh: Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Thuận, Bình Định, Phú Yên, Kiên Giang... Áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, giảm bệnh vàng lá chết chậm và bệnh héo chết nhanh. Đến năm 2030, có trên 40% diện tích hồ tiêu được trồng theo quy trình GAP và tương đương, diện tích hồ tiêu được cấp mã số vùng trồng đạt khoảng 40%. Rà soát phân loại diện tích hồ tiêu hiện có, chuyển đổi diện tích hồ tiêu ở những vùng không thích hợp, nhiễm bệnh nặng, già cỗi, kém hiệu quả sang trồng cây khác. Xây dựng hệ thống vườn giống hồ tiêu đầu dòng, ứng dụng kỹ thuật sản xuất giống hồ tiêu sạch bệnh để cung cấp giống cho diện tích hồ tiêu trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn khoảng 40 - 50%.
Khối lượng xuất khẩu hàng năm khoảng 210 - 250 nghìn tấn (bao gồm cả sản lượng nhập khẩu). Tiếp tục đổi mới công nghệ, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn ASTA, ESA, JSSA... Đến năm 2030, tỷ lệ chế biến sâu đạt khoảng 30% sản lượng (tiêu trắng, tiêu xay và các sản phẩm tinh chế khác); tỷ lệ tiêu đen 70%, trong đó tiêu nghiền bột 20%; tỷ lệ tiêu trắng 30%, trong đó tiêu nghiền bột trên 25%.
Cây dừa: Đến năm 2030, diện tích dừa khoảng 195 - 210 nghìn ha; vùng trồng dừa trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 170 - 175 nghìn ha, vùng Duyên Hải Nam Trung bộ diện tích 16 - 20 nghìn ha, còn lại 09 - 15 nghìn ha được trồng tại các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ... Chuyển giao các giống dừa mới vào sản xuất như dừa Xiêm xanh bầu, dừa Mã Lai, dừa Dứa... Đến năm 2030, trên 30% diện tích dừa được sản xuất theo quy trình GAP và tương đương. Diện tích dừa được cấp mã số vùng trồng đạt khoảng 30%. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật trồng xen (ca cao, cây ăn quả...), nuôi xen (thủy sản, gia cầm...) với trồng dừa để tăng giá trị trên diện tích đất sản xuất; với vườn dừa nuôi xen, cần phải được quản lý theo quy trình kỹ thuật, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường. Kết hợp xây dựng không gian phát triển vườn dừa với du lịch sinh thái miệt vườn, ẩm thực, gắn với xây dựng các sản phẩm OCOP của địa phương; vùng Đồng bằng Sông Cửu Long tại các tỉnh (Bến Tre, Trà Vinh, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng...), vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ tại các tỉnh (Bình Định, Quảng Ngãi, Khánh Hòa..).
Phát triển chuyên sâu 02 dòng sản phẩm gồm dừa chế biến và dừa tươi. Phát triển ngành công nghiệp chế biến dừa sử dụng công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng tăng nhanh những sản phẩm giá trị gia tăng cao và sản phẩm mới như: than không khói, than sinh học, than hoạt tính gáo dừa, cơm dừa nạo sấy, bột sữa dừa, sữa dừa, kem dừa, dầu dừa, thảm xơ dừa, nệm xơ dừa, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nước dừa đóng hộp... Phát triển hệ thống các cửa hàng kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, hàng đặc sản chế biến từ dừa. Đào tạo nguồn lao động về chế tác các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ dừa, thiết bị và công nghệ mới, thiết kế mẫu mã, thị trường tiêu thụ... để chủ động kế hoạch sản xuất, kinh doanh sản phẩm từ dừa.
Để hoàn thành các mục tiêu trên, Đề án đề ra các giải pháp trọng tâm về tổ chức sản xuất; khoa học công nghệ; thị trường tiêu thụ sản phẩm; quản lý Nhà nước; đầu tư tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế./.