Nhiệm vụ là tấn công, ngăn chặn địch trên Đường 13 dài gần 20km (đoạn từ phía nam Bình Long đến phía bắc Chơn Thành) trọng điểm là khu vực Tàu Ô để quân ta giải phóng Lộc Ninh và tiến công thị xã An Lộc.
Thực hiện phương châm chỉ đạo chiến dịch “chốt cứng, chặn đứng” kết hợp giữ vững trận địa dài ngày và ngăn không cho địch dùng xe tăng, xe cơ giới vượt qua chốt chặn Tàu Ô, lấy thế trận bao vây, chia cắt, chặn bộ binh, cơ giới địch lên tăng viện và không cho địch tháo chạy về Sài Gòn… Cụm chốt chặn chiến dịch trên đường 13 (Tàu Ô) có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, đó là:
Thứ nhất, lựa chọn Tàu Ô để lập chốt chặn vì nơi này có suối Tàu Ô, có cống to, xe tăng của địch không thể vượt qua được. Do vậy, Bộ tư lệnh Miền đưa Sư đoàn 7 mà chủ lực là Trung đoàn 209 và lực lưỡng vũ trang Bình Phước vào chốt ngay cống Tàu Ô, với quyết tâm giữ Đường 13. Tuyến đường này có ý nghĩa chiến lược quan trọng, do áp sát Sài Gòn.
Thứ hai, có giữ được Đường 13 thì chúng ta mới giữ được địa bàn Lộc Ninh, đảm bảo và đưa Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam về căn cứ cách mạng, cho nên ta với địch tranh giành nhau từng tấc đất. Phương châm chỉ đạo toàn bộ hoạt động của chiến dịch “chốt cứng, chặn đứng” với quyết tâm “mỗi người là một mũi thép tiến công”.
Do vị trí tự nhiên đặc biệt quan trọng nên Tàu Ô – Xóm Ruộng trở thành chiến lũy án ngự đoạn Đường 13, đây là bàn đạp quan trọng để ta phát triển xuống vùng trung tuyến hoặc địch tiến ra vùng giải phóng. Do vậy, Tàu Ô – Xóm Ruộng trở thành khu vực trọng điểm giành giật giữa ta và địch trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972.
Cụm chốt chặn Tàu Ô đã đánh dấu bước phát triển mới, sáng tạo về chiến thuật chốt chặn của Đảng, quân đội Việt Nam, đó là “Chốt chặn kết hợp vận động tiến công”.
Diễn biến của chiến dịch
Đợt 1 của chiến dịch diễn ra sáng ngày 5-4-1972
Để khơi thông Đường 13 và đập tan lực lượng quân Giải phóng chốt chặn Tàu Ô, địch huy động toàn bộ lực lượng của các sư đoàn 18, 21, 25, lữ đoàn 15 tăng thiết giáp, 1 lữ đoàn lính dù và sử dụng hơn 35.000 quả đạn pháo 105mm, 155mm, đánh phá trận địa ta. Trong 3 ngày đầu (từ 5-4 đến 8-4-1972), địch dùng hai phi đội máy bay chiến thuật với 120 lần chiếc đánh vào Tàu Ô; 80 lần chiếc yểm trợ cho bộ binh tấn công vào Tàu Ô. Địch còn huy động máy bay chiến lược B52 đánh 2 lần vào 2 giờ gần nhau, đánh thành chữ (X) lấy Tàu Ô làm giao điểm từ tây sang đông với chiều sâu 800m. Trước sự hủy diệt của lực lượng không quân, bộ binh và các hỏa lực pháo binh của địch, bộ đội ta vẫn tồn tại và kiên cường chống trả quyết liệt mỗi ngày.
Trên cơ sở phân tích tình hình chiến sự, lực lượng của địch, Bộ Tư lệnh Miền hạ quyết tâm cao và huy động, bố trí ba sư đoàn bộ binh chủ lực (Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9) cùng với sự tăng cường của các đơn vị, lực lượng vũ trang Bình Phước.
Đúng 5 giờ 30 phút, ngày 5-4-1972, Sư đoàn 5 quân Giải phóng mở trận tấn công mãnh liệt vào cụm cứ điểm Lộc Ninh - trọng điểm chính của chiến dịch Nguyễn Huệ. Phối hợp với chiến trường Lộc Ninh, các lượng vũ trang và du kích Bình Long cùng với quân chủ lực tấn công và làm tan rã hoàn toàn các cứ điểm quân sự xung yếu của địch trên Đường 13. Sư đoàn 7 triển khai chiếm lĩnh dọc đường 13 từ ngã ba Đồng Tâm đến thị trấn Chơn Thành, kết hợp với Huyện đội Chơn Thành, Huyện đội Hớn Quản gỡ một số đồn bảo an ở ngoại vi thị xã.
Ở phía bắc thị xã An Lộc, Sư đoàn 9 cùng với du kích và lực lượng bộ binh tỉnh, huyện tiến công vào căn cứ Téc Ních và cứ điểm Phú Lố. Trong nội ô thị xã, ta liên tiếp pháo kích, giam chân địch trong các đồn bót. Trước sức tấn công mạnh liệt của quân Giải phóng, lại không được tăng viện, địch buộc phải bỏ Lộc Ninh để dồn sức phòng thủ Bình Long. Ngày 7-4-1972, Lộc Ninh được hoàn toàn giải phóng.
Mất Lộc Ninh, thị xã An Lộc bị bao vây, Mỹ - ngụy dồn lực lượng cả ba vùng chiến thuật và phần lớn quân chủ lực ngụy ở Nam bộ để đối phó với ta trên vùng đông bắc Sài Gòn, giữ lấy thị xã Bình Long. Các hoạt động đó của địch đã gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong việc cơ động lực lượng, chuyển binh khí kỹ thuật, song Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn quyết tâm giải phóng bằng được thị xã An Lộc.
Từ ngày 7 đến 13-4-1972, trong khi quân Giải phóng bao vây thị xã An Lộc, lực lượng du kích, các đội công tác huyện và du kích các xã tập trung đánh trung đội bảo an đóng tại Xacoxuyt (Xa-cô-xít), truy bắt bọn tề điệp, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch. Một bộ phận vũ trang huyện Hớn Quản và du kích Phước An chỉ huy trung đội dân vệ ấp chiến lược Tổng Cui đứng lên phá tan ấp chiến lược Tổng Cui. Ở Sóc Gòn, du kích diệt được 40 tên địch.
Khi các đơn vị chủ lực tiến công vào thị xã, tiểu đoàn 368 của tỉnh và lực lượng vũ trang huyện Hớn Quản tấn công bót cảnh sát Quản Lợi, kêu gọi dân vệ, bảo an ra hàng. Tiếp đó, hai đại đội 70 và 75 do đồng chí Út Tính, Huyện đội phó chỉ huy, cùng với đại đội đặc công tỉnh phối hợp tiến công địch ở ngoại vi, tiếp tục tấn công bọn bảo an dân vệ ở các ấp ven và ngay tại thị xã An Lộc, kềm chân địch để chủ lực quân Giải phóng tiến sâu vào nội thị. Đặc biệt trong các ngày 21, 22-4-1972, bộ đội đặc công tỉnh và du kích cùng với Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 1 (Sư đoàn 5) chủ lực Miền, tấn công chiếm lại Núi Gió và cao điểm 169, diệt phần lớn tiểu đoàn 6 dù và ban chỉ huy lữ đoàn dù. Ở Tân Khai, Xa Cam, Xa Cát, các mũi tấn công cùng du kích phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, gọi binh sĩ địch ra hàng. Ở Xa Cam, Xa Cát, hàng chục lính phòng vệ dân sự bỏ súng về với cách mạng, một số cơ sở mật tại Xa Cát đã vận động được 29 phòng vệ dân sự trở về với cách mạng.
Ngày 13-4-1972, quân Giải phóng bắt đầu tiến công thị xã An Lộc, pháo binh các loại đồng loạt bắn phá các mục tiêu quan trọng của địch trong tiểu khu, địch phản kích mạnh bằng những hoạt động bom, pháo và tấn công từ sau lưng đội hình của quân Giải phóng nhằm giải tỏa áp lực xung quanh thị xã. Suốt 32 ngày đêm liền, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt giữa một bên là quân Giải phóng quyết tâm giải phóng thị xã An Lộc bằng mọi giá. Địch tăng cường binh lực cố thủ trong thị xã bằng mọi giá, chúng huy động gồm 5 lữ đoàn để tăng cường hỏa lực không quân chi viện, máy bay B52, máy bay chiến thuật và hỏa lực chống tăng được tăng cường, bố trí sẵn ở các nút chặn và trên các nhà cao tầng để ngăn chặn tiến công của ta. Lực lượng phía sau của địch được tăng cường thêm Sư đoàn 21, Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9) ở đồng bằng sông Cửu Long và Lữ đoàn 3 dù ở Tây Nguyên được điều về Đường 13 để tiến quân lên Bình Long.
Ngày 15-5-1972, quân Giải phóng mở đợt tiến công mới vào thị xã An Lộc, đột phá vào tuyến phòng thủ nhiều tầng của địch. Bộ đội ta đã mở toang cánh cửa và đột phá vào các mục tiêu vòng ngoài, chiếm nhà giam giải phóng toàn bộ đồng bào, đồng chí ở nhà giam An Lộc. Địch điên cuồng cho máy bay phản lực đến ném bom theo cách thảm sát để ngăn chặn.
Ngay khi chiến sự kết thúc, để giải quyết số người chết trong 32 ngày đêm đó, chính quyền Việt Nam Cộng hòa dùng xe ủi, ủi bốn rãnh lớn rộng khoảng 3m, sâu khoảng 1,5m trong khu vực bệnh viện để chôn các xác chết trong bệnh viện và từ các nơi khác về, hình thành ngôi mộ tập thể hơn 3.000 người - chứng tích của tội ác chiến tranh do bom pháo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa giết hại đồng bào và binh lính địch.
Đợt 2 chiến dịch diễn ra từ ngày 16-5 đến ngày 28-8-1972
Đến ngày 15-5-1972, do yếu tố bất ngờ của chiến dịch không còn nữa và do lực lượng cách mạng có sự tổn thất, không kịp bổ sung để đối phó với địch khi chúng tập trung các loại phương tiện chiến tranh để giải tỏa Đường 13, giải tỏa thị xã An Lộc, Bộ tư lệnh Miền quyết định không tiến công thị xã, mà chuyển sang bao vây cô lập địch trong thị xã, dùng lực lượng mạnh chốt chặn ở Tàu Ô, Tân Khai đánh địch càn quét, giải tỏa Đường 13, tiêu diệt sinh lực địch. Lúc này vùng giải phóng ở Bình Long được mở ra rất rộng, hình thành thế bao vây áp sát địch trong nội ô thị xã An Lộc.
Từ ngày 16-5-1972, Sư đoàn 7 chủ lực Miền chốt chặn Đường 13 nhằm đẩy lùi và đánh bại âm mưu phản kích giải tỏa Đường 13 của địch, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển tiếp, phục vụ cho việc giữ vững vùng giải phóng phía sau. Sư đoàn 7 đã dựng lên trên Đường 13 một bức “tường thép” với chiều dài gần 20km từ phía nam thị xã An Lộc đến phía bắc huyện Chơn Thành, lấy khu vực Tàu Ô - Xóm Ruộng thuộc Hớn Quản làm khu vực then chốt. Nhiều trận đánh dọc theo các trận địa chốt chặn Tàu Ô diễn ra quyết liệt và kéo dài gần 4 tháng (từ 16-5 đến 28-8-1972). Tàu Ô trở thành cái bẫy thu hút nhiều đơn vị chủ lực của địch đến tham chiến và trở thành ác mộng đối với nhiều sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn, quân đoàn và cả Bộ Tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn. Những trận đánh Tàu Ô, Xóm Ruộng, cống Ông Tề, Tân Khai, Thanh Bình của bộ đội chủ lực tạo điều kiện để du kích địa phương tập trung uy hiếp tề xã, tề ấp và diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Sĩ quan, binh lính địch suy sụp tinh thần chiến đấu, binh lính đào ngũ, rã ngũ tăng lên, đồn bót địch co lại, không dám bung ra hoạt động như trước.
Nhân khi địch đang bị thu hút ở chiến trường ác liệt thị xã An Lộc, tại Chơn Thành, bộ đội huyện cùng du kích phát động nhân dân các xã Minh Hòa, Minh Thành, sóc số 5 nổi dậy, giải phóng hoàn toàn các xã. Tại thị trấn Chơn Thành, tuy quân địch tập trung không đông, nhưng do chúng đang bị thu hút vào mục tiêu giải tỏa Đường 13, tiếp ứng cho An Lộc, nên phong trào đấu tranh của quần chúng đươc duy trì. Các chi bộ Đảng vận động nhân dân, một mặt cung cấp cho cách mạng lương thực, thuốc men và đưa con em tham gia lực lượng chiến đấu, mặt khác tổ chức các cuộc đấu tranh với địch đòi đưa chồng con, em đang đi lính trở về với gia đình.
Trong khi chiến sự diễn ra, hơn 80.000 nhân dân thị xã An Lộc phải chịu đựng một cuộc thử thách gay go ác liệt chưa từng có, hơn 5.000 người bị máy bay địch ném bom giết hại, nhiều bộ phận dân chúng bị dồn về các “vùng an toàn” nhưng thực tế có nguy cơ tiếp tục bị tổn thất hàng loạt. Trước tình hình đó, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Phước cử cán bộ đón và đưa dân từ các đồn điền bị bom địch đánh đe dọa chạy ra khỏi vùng chiến sự. Các đồng chí Năm Sao, Tám Lênh, Chính Thu, Sáu Dư, Tám Gia, Chín Chùa, Hai Kỳ, Năm Thành… nỗ lực khắc phục khó khăn về lương thực, thuốc men, phương tiện vận chuyển, đưa hơn 20.000 dân vượt qua bom đạn về vùng giải phóng. Tuy nhiên, do đánh giá tình hình chưa chính xác, chưa lường được hết tính chất giằng co ác liệt, nên việc đưa dân sơ tán diễn ra rất bị động, phải thay đổi địa điểm nhiều lần. Cuộc sống của các bộ phận người dân chạy khỏi vùng chiến sự không ổn định, không tổ chức cứu tế kịp thời và bị thiếu lương thực thực phẩm, thuốc men, nhiều người đau yếu, chiến sự diễn ra ngày càng lan rộng, khó khăn ngày càng tăng thêm.
Trong bom đạn ác liệt, Đảng bộ tỉnh phải vận dụng mọi khả năng của địa phương, cùng với sự chi viện của trên để chăm lo đời sống của người dân vùng mới giải phóng, vừa tích cực giải quyết lương thực, thuộc men cho dân, vừa vận động nhân dân tham gia phát rừng làm rẫy. Mọi phương tiện được sử dụng để đưa gạo về cho dân kịp thời cũng như di chuyển dân bị bệnh từ biên giới về nội địa.
Chiến dịch Nguyễn Huệ trên chiến trường Lộc Ninh – Bình Long đã góp phần vào thắng lợi của cuộc tập kích chiến lược xuân hè năm 1972, đòn tiến công có ý nghĩa quyết định trên toàn miền Nam buộc địch phải trở lại đàm phán tại hội nghị Paris. Cùng với thắng lợi to lớn của quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai mà đình cao là trận “Điện Biên phủ trên không” cuối năm 1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Đây là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, kết quả của 18 năm đấu tranh kiên cường của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Kết quả, trải qua 150 ngày đêm chiến đấu tại chốt chặn Tàu Ô (từ ngày 5-4 đến 28-8-1972), Sư đoàn 7 và quân dân Bình Phước đã tổ chức đánh gần 800 trận lớn nhỏ với nhiều hình thức khác nhau như: Đánh phục kích, tập kích, vây ép… tiêu diệt 8.189 tên; bắt 211 tên địch; bắn rơi và phá hủy 119 máy bay các loại; phá hủy 202 xe các loại, 102 khẩu pháo, 20 hầm đạn và nhiên liệu, thu 390 súng các loại. Địch thiệt hại nặng buộc phải rút chạy khỏi khu vực tác chiến, từ bỏ ý đồ giải tỏa Quốc lộ 13.